Quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần được phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Quý khách hàng có thể tham khảo một số câu hỏi thường gặp về bồi thường thiệt hại theo Quy định pháp luật dưới đây:

Câu 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định như thế nào?

Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:

– Có thiệt hại xảy ra.

Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.

+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu  nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.

+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.

+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm hại “bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân”.

Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai…

Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại.

– Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.

Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…

– Có lỗi của người gây thiệt hại.

+ Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người  có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý  hay vô ý.

+ Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

+ Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

+ Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm  chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.

Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý  mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.

– Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.

+ Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên tắc của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: “Người nào… xâm phạm… mà gây thiệt hại…  thì phải bồi thường”. Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.

Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan  một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.

Câu 2: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự được giải quyết trên những nguyên tắc nào?

Trả lời:

Điều 605 Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:

– Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Câu 3: Năng lực bồi thường thiệt hại được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước… Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người khác có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù  hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định  về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 606 Bộ luật Dân sự) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự quy định năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân cụ thể như sau:

– Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi thường;

– Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự.

Người từ 15 tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình;

– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hội không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

Câu 4: A làm nghề lái xe ôm. Một hôm, A cho B là người hàng xóm mượn xe để về quê, từ quê lên, do uống rược say nên B đã lao xe vào gốc cây bên đường khiến xe bị hư hỏng rất nặng. Xe hỏng khiến A không thể chở khách được, thu nhập của A bị giảm sút. Vậy khi A có yêu cầu thì B có phải bồi thường thiệt hại cho A không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì trong trường hợp tài sản bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:

– Tài sản bị mất;

– Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;

– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;

– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

Như vậy, đối chiếu theo quy định trên thì B phải bồi thường thiệt hại cho A vì B mượn tài sản của A, gây hư hỏng làm ảnh hưởng đến việc khai thác lợi ích từ tài sản đó của A, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của gia đình A. Mức bồi thường thiệt hại do hai bên thoả thuận trên cơ sở chi phí sửa chữa chiếc xe.

Câu 5: Người gây thiệt hại cho người khác về sức khoẻ mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại những chi phí gì?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại cho người đó những chi phí sau:

– Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

– Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Câu 6: Vừa qua, tôi có đọc một số bài báo viết về việc xét xử các vụ án dân sự, trong đó báo có đề cập đến việc tòa án xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm hại.Tôi xin hỏi, theo quy định của pháp luật thì thiệt hại do tính mạng bị xâm hại được xác định như thế nào? Mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu?

Trả lời:

Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được quy định tại Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2005. Cụ thể là:

– Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

– Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định nêu trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được thừa hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định.

Hiện nay, mức lương tối thiểu được quy định tại Nghị định số 118/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ về điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, theo đó từ ngày 01 tháng 10 năm 2005 mức lương tối thiểu chung là 350.000 đồng/tháng. Như vậy, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần nếu các bên không thỏa thuận được là không quá 21.000.000 đồng (hai mốt triệu đồng).

Câu 7: Vừa qua, tôi có dự phiên tòa xét xử lưu động tổ chức tại trụ sở Uỷ ban nhân dân phường. Khi tuyên án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã đọc bản án, trong đó có phần liên quan đến bồi thường thiệt hại của cá nhân do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Tôi xin hỏi thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm những loại thiệt hại nào ? Mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu ?

Trả lời:

Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định tại Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau.

– Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:

+ Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

– Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Câu 8: Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm được Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định như thế nào ?

Trả lời:

Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể là:

– Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết.

– Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:

+ Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

+ Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

Câu 9: Một người có hành vi chống trả người đang xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà gây thiệt hại thì được pháp luật hình sự và pháp luật dân sự quy định như thế nào?         

Trả lời:

– Trong thực tế, có nhiều trường hợp một người, do phải chống trả một người khác đang có hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại. Đây là những trường hợp phòng vệ- tuỳ theo sự tương xứng tính chất, mức độ của sự xâm hại với thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm hịa để xác định là phòng vệ chính đáng hay phòng vệ vượt quá giới hạn chính đáng.

– Trong luật hình sự, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của  người khác mà chống trả lại một cách tương xứng người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Người có hành vi phòng vệ chính đáng không bị coi là tội phạm. Chỉ khi hành vi chống trả rõ ràng là quá  mức cần thiết thì người có hành vi đó mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Đây là trường hợp do đánh giá sai tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại mà người phòng vệ đã lựa chọn phương tiện hoặc phương pháp gây ra thiệt hại  là quá mức cần thiết cho người xâm hại, trong khi không cần thiết phải gây thiệt hại như vậy.

– Trong luật dân sự, nguyên tắc bồi thường thiệt hại cũng được xác định dựa trên yếu tố “phòng vệ chính đáng” hay “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Câu 10: T do uống rượu say xỉn, không tự chủ được hành vi đã quậy phá làm vỡ nhiều đồ đạc có giá trị của anh H.  Khi T tỉnh rượu, anh H yêu cầu T phải bồi thường. T không chịu vì cho rằng, do say chứ T không cố ý phá phách, gây thiệt hại cho anh H. Xin hỏi, trong trường hợp này T có phải bồi thường cho anh H không ?

Trả lời: 

Mặc dù không cố ý nhưng hành vi của T quậy phá, gây ra thiệt hại cho anh H là hành vi vi phạm pháp luật và T phải chịu trách nhiệm, phải bồi thường thiệt hại cho anh H( người bị thiệt hại).

Việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp do dùng chất kích thích gây ra được quy định tại Điều 615 Bộ Luật Dân sự năm 2005 như sau: Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.

Do vậy, T phải bồi thường thiệt hại cho anh H.

Câu 11. N và nhóm bạn của mình rủ nhau ra sông thi bơi, lặn đã vô ý làm tấm lưới quây cá nhà bà T bị hở, do đó một số cá nhà bà T nuôi đã bơi ra ngoài. Vậy Bộ luật dân sự quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp này như thế nào?

Trả lời:

– Điều 616 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

Như vậy, N và nhóm bạn của mình đều có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà T tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Nếu không xác định được mức độ lỗi của mỗi người thì từng người phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

Câu 12. Do ông B quên không đóng cửa vườn dưa nên con bò nhà anh D đã vào vườn và làm hư hại một phần vườn dưa nhà ông B. Ông B yêu cầu anh D phải bồi thường thiệt hại do con bò gây ra, nhưng anh D không đồng ý vì cho rằng do lỗi của ông B không đóng cửa vườn. Trong trường hợp này, việc bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào?

Trả lời:

– Theo quy định tại Điều 617 Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi thì khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.

– Trong trường hợp trên, ông B tuy là người bị thiệt hại nhưng thiệt hại đó một phần do lỗi của ông vì ông quên không đóng cửa vườn, nên ông phải chịu một phần trách nhiệm đối với thiệt hại xảy ra. Còn anh D cũng có lỗi do đã không trông coi bò để bò phá vườn dưa, anh cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại xảy ra và phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.

Câu 13. Trường hợp người của pháp nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao gây thiệt hại cho người khác thì pháp nhân hay người gây thiệt hại phải bồi thường ?

Trả lời:

Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân có thể là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế…

Theo quy định tại Điều 618 Bộ luật dân sự năm 2005, trường hợp người của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao thì pháp nhân phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả cho mình một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

Câu 14. Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho người khác thì xử lý thế nào. Ai là người phải bồi thường đối với các thiệt hại đã xảy ra.

Trả lời :

Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005  về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra như sau :

– Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.

– Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức có lỗi trong khi thi hành công vụ .

Khoản 5, Điều 39 Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định:

– Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.

– Căn cứ vào các quy định trên khi cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho người khác thì cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Câu 15. Cơ quan điều tra huyện A đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can M về tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 và ra lệnh tạm giam M để điều tra. Lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện A phê chuẩn. Nhưng sau qua trình điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện A ra quyết định huỷ bỏ lệnh tạm giam vì M không thực hiện hành vi phạm tội. M có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hỏi trường hợp của M có được bồi thường thiệt hại không ? Nếu có thì cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường ?

Trả lời :

Điều 620 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, quy định :

– Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.

– Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ.

Điểm 1.2 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT – VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 thì trường hợp của anh M thuộc diện các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Anh M có quyền làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Điều 10 Nghị quyết số 388/2003/NQ –UBTVQH, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định như sau :

– Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã ra quyết định khởi tố bị can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người bị khởi tố không thực hiện hành vi phạm tội.

– Cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp việc tạm giữ bị huỷ bỏ vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc tạm giam bị huỷ bỏ vì người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội ; nếu việc tạm giữ, tạm giam có phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn phải bồi thường.

Như vậy, theo các quyết định nêu trên, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là Viện kiểm sát nhân dân huyện A, nơi có quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của Trưởng công an huyện A.

Câu 16. Cháu tôi 9 tuổi được đi cắm trại tại công viên do nhà trường tổ chức, do nghịch ngợm, cháu cùng một số bạn đã dẫm nát hai luống hoa, cây cảnh mới trồng. Ban quản lý công viên yêu cầu nhà trường phải đền bù thiệt hại. Nhà trường cho rằng bố, mẹ các cháu đã gây thiệt hại là người phải bồi thường. Bố mẹ các cháu cho rằng vụ việc xảy ra trong thời gian nhà trường quản lý nên trường có trách nhiệm bồi thường. Xin hỏi trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai? 

Trả lời:

Điều 621 Bộ luật dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý như sau:

– Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

– Trong trường hợp quy định nêu trên, nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.

– Căn cứ quy định tại Điều 621 thì thiệt hại do các cháu gây ra trong thời gian thuộc sự quản lý của nhà trường, do đó nhà trường có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại xảy ra.

Câu 17. Ông A, chủ nhà hàng ăn uống, tôi có thuê một người trông giữ xe cho khách, do bất cẩn người đó đã làm mất một chiếc xe máy của khách. Người khách bị mất xe đòi tôi bồi thường. Theo quy định của pháp luật, ông A hay người trông giữ xe phải bồi thường?

Trả lời:

Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định, cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

Như vậy, trong trường hợp này, trước hết, ông A có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại vì thiệt hại do người làm công gây ra trong khi thực hiện công việc được giao. Sau đó, ông A có quyền yêu cầu người trông giữ xe hoàn trả toàn bộ hay một phần tiền theo quy định của pháp luật.

Câu 18. Nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?

Trả lời:

Điều 623 Bộ luật dân sự quy định về nguồn nguy hiểm cao độ như sau:

– Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

– Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

– Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

– Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

Câu 19. Pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường?

Trả lời:

Theo quy định tại Ðiều 624 Bộ luật dân sự, thì cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.

Theo Điều 133 Luật bảo vệ môi trường, việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường được quy định như sau:

– Tự thoả thuận của các bên;

– Yêu cầu Trọng tài giải quyết;

– Khởi kiện tại Toà án.

Việc tính toán chi phí thiệt hại về môi trường được quy định như sau:

– Tính toán chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của các thành phần môi trường;

– Tính toán chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường;

– Tính toán chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại;

– Thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan;

Tuỳ điều kiện cụ thể có thể áp dụng một trong những biện pháp quy định kể trên để tính toán chi phí thiệt hại về môi trường, làm căn cứ để bồi thường và giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường.

Câu 20: Nhà ông A và nhà ông B là hai nhà liền kề. Vườn xoài nhà ông A có một số cành xoài trùm lên phần mái nhà của ông B gây vỡ nhiều mảng ngói của nhà ông B. Vậy ông B có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại hay không?

Trả lời:

Ông A có quyền sử dụng đất theo đúng mục đích sử dụng theo quy định của pháp luật. Mảnh vườn đó thuộc quyền sử dụng của ông A. Vấn đề ông A trồng cây gì là thuộc quyền của ông A, miễn là không phải cây mà pháp luật cấm trồng, hoặc việc trồng đó ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, và có nguy cơ phương hại đến các công trình liền kề. Trong trường hợp này, ông A phải dự liệu tới việc tán lá phủ sang nhà liền kề, và do đó phải để  ra một khoảng cách thích hợp giữa cây mình trồng với nhà của ông B. Ở đây, ông A đã không làm điều đó, mà để hậu quả xảy ra đối với nhà ông B. Vậy ông B có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.

Theo quy định của Bộ luật dân sự cụ thể tại Điều 626 quy định, chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gãy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.

Câu 21: Pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra?

Trả lời:

Điều 627 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dưng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.

Câu 22. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Điều 628  Bộ luật dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể như sau:

–  Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác xâm phạm thi thể phải bồi thường thiệt hại.

–  Thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.

–  Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định nêu trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Ví dụ: Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B về hành vi xâm phạm thi thể, nhưng giữa A và B không thoả thuận được khoản tiền này. Do vậy, Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:

Theo quy định hiện nay của pháp luật về tiền lương, thì mức lương tối thiểu là 350.000đồng/ 1tháng x 30 tháng = 10.500.000đồng

Như vậy, Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B là 10.500.000đồng.

QUÝ KHÁCH HÀNG CÓ NHU CẦU TƯ VẤN – SỬ DỤNG DỊCH VỤ VUI LÒNG LIÊN HỆ TRỰC TIẾP VỚI CHÚNG TÔI:

✦ Văn phòng: Phòng 16, tầng 6 – R6, sảnh B Royal city, 72A Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
✦ Hotline: 0912 914 253
✦ Email: office@leadconsult.com.vn
✦ Website: https://leadconsult.com.vn